Tạp chí khoa học - Tái diễn cuộc chạy đua lên Mặt Trăng
Kể từ sau các chuyến bay của phi thuyền Apollo vào năm 1972, nhân loại chưa hề đặt chân trở lại Mặt trăng. Nhưng nay, các cường quốc không gian, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc, đang khởi động lại cuộc chạy đua ( hay nói đúng hơn là cuộc bay đua ) lên vệ tinh tự nhiên này của Trái đất.
Ngày 23/03/2019, tại « Rocket City », ở Huntsville, bang Alabama, phó tổng thống Mike Pence thông báo Hoa Kỳ sẽ đẩy nhanh việc đưa các phi hành gia Mỹ trở lại Mặt trăng, trong giai đoạn từ 2024 đến 2028. Ông Mike Pence còn xác nhận: người đầu tiên trở lại Mặt trăng sẽ là một phụ nữ Mỹ, được phóng lên bằng các tên lửa của Mỹ từ lãnh thổ Mỹ.
Kể từ khi chấm dứt các chuyến bay của phi thuyền con thoi vào năm 2011, Cơ quan Không gian Hoa Kỳ NASA hầu như không còn tham vọng nào khác. Ngay sau khi lên cầm quyền, tổng thống Donald Trump đã « đánh thức » cơ quan này và từ năm 2017, ông đã đề ra mục tiêu là các phi hành gia Mỹ phải trở lại Mặt trăng, xem đây là bước đầu tiên để đưa con người lên thám hiểm Sao Hỏa trong tương lai.
Bị tổng thống Trump thúc ép, NASA bèn vạch ra một lịch trình là trước tiên sẽ đưa các công cụ và các robot lên Mặt trăng, rồi sẽ đưa các phi hành gia lên đây vào năm 2028. Nhưng nay, đối với phó tổng thống Mike Pence, Hoa Kỳ không thể đợi lâu như thế, mà phải đẩy nhanh lịch trình, nhất là vì Trung Quốc gần đây đã đưa được một phi thuyền lên phần tối của Mặt trăng, cho thấy Bắc Kinh có tham vọng giành lợi thế trên vệ tinh của Trái đất.
Trong phát biểu tại Huntsville, ông Mike Pence đã so sánh tổng thống Trump với cố tổng thống Kennedy, như thể là ông muốn đưa nước Mỹ trở lại thời kỳ thập niên 1960, thời kỳ của cuộc chạy đua lên không gian giữa Hoa Kỳ với Liên Xô, chỉ có khác là bây giờ đối thủ chính của Mỹ không còn là Liên Xô nữa, mà là Trung Quốc.
Trả lời RFI ban Pháp ngữ ngày 2/03, với ông Olivier Sanguy, tổng biên tập bản tin thời sự không gian của trung tâm Cité de l’Espace ở Toulouse ( Pháp ) , nhận định rằng tham vọng không gian của tổng thống Trump có trở thành hiện thực hay không là tùy thuộc vào lá phiếu của các nghị sĩ Quốc Hội Mỹ:
« Ông Donald Trump cố thể hiện một hình ảnh khác với hình ảnh phổ biến trên thế giới hiện nay. Ông muốn chứng tỏ mình là một vị tổng thống có thể đề ra một kế hoạch cho dài hạn. Khi Donald Trump đề ra kế hoạch 5 năm, có nghĩa là ông đặt trong viễn cảnh tái đắc cử tổng thống Mỹ.
Về mặt không gian thì 5 năm là một thời hạn hoàn toàn khả thi. Vấn đề duy nhất là ngân sách phải được thông qua. Tên lửa mà NASA sẽ sử dụng để thực hiện dự án này, SLS ( Space Lanch System - Hệ thống phóng không gian ), đã gặp nhiều chậm trễ và sự chậm trễ này khiến tên lửa trở nên tốn kém hơn. Như vậy phải đẩy nhanh việc xây dựng tên lửa và phải chi ra thêm hàng tỷ đôla. Nên nhớ rằng đảng Cộng Hòa nay không còn nắm đa số ở Hạ Viện nữa. Nếu Nhà Trắng muốn huy động hàng tỷ đôla, thì phải đưa vấn đề ra biểu quyết ở Quốc Hội và không có gì bảo đảm là ngân sách này sẽ được thông qua.
Hiện giờ, vẫn có một sự đồng thuận trong chính giới Mỹ, vì Hoa Kỳ vẫn tin rằng cần phải giữ thế áp đảo trên không gian. Họ hiểu rằng để duy trì vị thế siêu cường quốc thì phải đứng hàng đầu trong công cuộc chinh phục không gian. Nhưng vấn đề là họ có huy động được thêm thêm ngân sách để đẩy nhanh chương trình không gian hay không. Tên lửa SLS đã được cả đảng Cộng Hòa lẫn đảng Dân Chủ bỏ phiếu thông qua, tức là đã có một sự đồng thuận không phân biệt xu hướng chính trị. Nhưng Nhà Trắng đã đề ra thời hạn 5 năm, có nghĩa là phải đi nhanh hơn rất nhiều, và trong không gian cũng như trong các lĩnh vực khác, muốn như thế thì phải bỏ ra rất nhiều tiền. »
Trong khi nước Mỹ vật vã với ngân sách cho không gian, thì Trung Quốc đã có một bước đột phá ngoạn mục, với việc phi thuyền Thường Nga - 4, sau gần một tháng hành trình, đã hạ cánh thành công xuống phần tối của Mặt Trăng sáng 03/01/2019, giờ Bắc Kinh. Như vậy, Trung Quốc đã là quốc gia đầu tiên đưa được phi thuyền lên mặt tối của Mặt Trăng.
Đạt được mục tiêu này không phải là dễ, bởi vì bởi mặt khuất của Mặt trăng có địa hình hiểm trở, trái ngược với mặt sáng với nhiều khu vực bằng phẳng. Thiết lập thông tin liên lạc với phía tối của Mặt Trăng là khó hơn nhiều so với mặt sáng.
Để đuổi kịp Mỹ hoặc châu Âu, trong những năm gần đây, Trung Quốc đã đầu tư hàng tỉ euro cho việc chinh phục không gian, lĩnh vực được coi là một ưu tiên. Đối với Bắc Kinh, thành công về chinh phục không gian là một biểu tượng cho sức mạnh quốc gia. Mục tiêu tiếp theo của Trung Quốc là đưa một phi hành gia lên Mặt Trăng trước năm 2030, và chinh phục Sao Hỏa.
Rõ ràng là Hoa Kỳ bắt buộc phải đầu tư thêm hàng tỷ đôla nếu không muốn bị Trung Quốc qua mặt, như nhận định của ông Olivier Sanguy :
« Trước hết Trung Quốc là một cường quốc không gian đã khẳng định được vị thế. Trung Quốc có một chương trình không gian rất dồi dào, nhắm vào dài hạn. Nhưng Hoa Kỳ không muốn Trung Quốc tiến quá gần đến vị trí áp đảo của họ trên không gian. Họ vẫn muốn NASA là cơ quan đi hàng đầu trong lĩnh vực thăm dò không gian và về mặt quân sự, thông qua Lầu Năm Góc, Hoa Kỳ cũng tiếp tục bỏ xa các nước khác, để bảo vệ các cơ sở hạ tầng của họ trên không gian.
Nên nhớ rằng hiện nay, quân đội Mỹ, các cơ quan tình báo Mỹ sử dụng rất nhiều các công cụ trên không gian. Ở đây, thông điệp mà Washington muốn nhắn gởi, đó là, trong lĩnh vực không gian, chúng tôi đã có một vị thế vững chắc và không nên đến quấy rầy chúng tôi. »
Hơn nữa, theo ông Olivier Sanguy, chính giới Hoa Kỳ cần phải hiểu rằng, số tiền đầu tư cho công cuộc chinh phục không gian không phải là tiền ném qua cửa sổ :
« Khi tiến hành thám hiểm Mặt Trăng, cho dù là với mục đích khoa học, không phải là chúng ta ném hàng tỷ đôla lên không gian, mà chính số tiền đó gián tiếp phục vụ cho các trường đại học, cho các ngành công nghiệp và như vậy tạo điều kiện cho việc phát triển công nghệ cao cấp, cho nghiên cứu cao cấp. Nói cách khác, một quốc gia có trọng lượng về mặt không gian sẽ tạo điều kiện cho việc nâng cao trình độ kinh tế và khoa học, rất cần thiết trong xã hội tri thức.
Trung Quốc đã nắm bắt được điều đó, Hoa Kỳ cũng mới bắt đầu khám phá điều đó trở lại. Trong những năm gần đây, nước Mỹ đã phần nào bớt quan tâm đến không gian. Phải công nhận rằng cơ quan NASA đã thuyết phục được chính quyền rằng số tiền đầu tư vào không gian là rất hữu ích cho nền kinh tế Mỹ.
Trở lại Mặt trăng lần này, các nước nhắm nhiều hơn đến nghiên cứu khoa học, chứ còn các chuyến bay của phi thuyền Apollo trước đây mang tính chất địa chính trị nhiều hơn. Trước đây, mục đích của Hoa Kỳ là nhằm chứng tỏ họ đứng ngang bằng hoặc hơn Liên Xô. Còn bây giờ, trong các chuyến bay đến Mặt trăng, họ sẽ tiến hành nhiều nghiên cứu khoa học hơn, nhắm đến những mục tiêu dài hạn hơn. Chính cơ quan NASA đã nói rõ, họ trở lại Mặt trăng không phải là để cắm một lá cờ, mà là để thăm dò một cách lâu dài, là nhất là để thử nghiệm các công nghệ sẽ cần thiết cho các chuyến thám hiểm Sao Hỏa trong tương lai. »
Qua cuộc chạy đua lên Mặt Trăng, cả Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc đều nhắm đến mục tiêu tiếp theo là chinh phục Sao Hỏa. Vấn đề là, theo ông Olivier Sanguy, trong một nước dân chủ như Mỹ, không dễ gì thuyết phục các chính khách quan tâm đến mục tiêu dài hạn như Sao Hỏa :
« Một số kỹ sư cho rằng trở lại Mặt trăng không phải là giai đoạn bắt buộc, nhưng những người khác thì lập luận rằng lên Sao Hỏa là cả một bước nhảy vọt, vì hành tinh này nằm xa hơn Mặt trăng rất nhiều. Đó là những chuyến bay kéo dài đến 2 năm, trong khi bay lên Mặt trăng chỉ mất mấy ngày.
Cũng cần phải thấy rằng về mặt chính trị nội bộ, Mặt trăng là mục tiêu dễ được chấp nhận hơn trong một chế độ dân chủ, những chế độ mà trong đó thời gian của các nhiệm kỳ chính trị ngắn hơn rất nhiều so với thời gian thực hiện các chương trình không gian. Nếu ngày mai, cơ quan NASA nói rằng họ đưa phi hành gia lên Sao Hỏa, nhưng phải cần 10 hay 20 năm, sẽ không có một chính khách nào quan tâm đến chuyện đó, vì trong 10 hoặc 20 năm nữa, họ đâu còn nắm quyền nữa đâu!
Trong khi nếu cơ quan NASA nói chúng tôi sẽ đưa người lên Mặt trăng, chỉ mất vài năm thôi và cũng để chuẩn bị cho các chuyến bay lên Sao Hỏa, thì về mặt chính trị, nói như thế dễ thuyết phục hơn. »
Trước mắt, do không thể tự mình đưa dụng cụ nghiên cứu khoa học và phi hành gia lên Mặt trăng, các nước khác sẽ phải dựa vào hai cường quốc không gian Mỹ, Trung. Ngày 25/03, Pháp và Trung Quốc đã ký một hiệp định hợp tác không gian dự trù đưa các dụng cụ nghiên cứu khoa học của Pháp lên Mặt trăng, nhân chuyến bay của phi thuyền Trung Quốc Thường Nga - 6 ( Chang’e-6 ) lên Mặt trăng trong khoảng thời gian từ 2023-2024. Trong khi đó, Canada, qua thông báo của thủ tướng Justin Trudeau ngày 28/03, cho biết sẽ kết hợp với cơ quan NASA để trở lại Mặt trăng và sẽ tham gia vào việc thiết kế trạm không gian nhỏ Gateway, sẽ được sử dựng như là trạm trung chuyển trong các chuyến bay từ Trái đất lên Mặt trăng.
Tạp chí khoa học - Apollo 11: Bước tiến nhân loại hay bước ngoặt "Tin giả"?
Ngày 21/07/2019, nhân loại mừng 50 năm ngày con người lần đầu đặt chân lên Mặt trăng, một trong những cuộc chinh phục không gian lớn trong lịch sử loài người. Nhưng nửa thế kỷ sau, hàng triệu người vẫn tin rằng : Con người chưa bao giờ đi trên Mặt Trăng. Sự kiện « Apollo 11 » là một bước ngoặt lịch sử « tin giả » hay là bước tiến nhân loại ?
Apollo 11 : Sản phẩm kiểu Hollywood của NASA?
Ngược dòng thời gian, ngày 21/07/1969, chính xác là vào lúc 2 giờ 56, giờ quốc tế, phi hành gia người Mỹ, Neil Armstrong đã đặt chân lên Mặt trăng. Người ta còn nghe được thông điệp của Amrstrong gởi về Trái Đất : « Một bước đi nhỏ của một người, nhưng một bước nhảy vọt cho nhân loại ».
Câu nói này trở nên bất hủ. Nhưng cũng trong vòng 50 năm đó, nhiều người vẫn tin rằng « Người Mỹ chưa bao giờ đặt chân lên Mặt trăng » và đó chỉ là « tin giả ». Từ những năm 1970, thuyết về « tin giả » tiếp tục lan truyền. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ tin học còn giúp lời đồn đại này lan rộng nhanh chóng.
Trên nhiều trang mạng, người ta có thể tìm thấy các thông tin cho rằng chương trình Apollo 11 chỉ là chuyện viễn tưởng được Hoa Kỳ dàn dựng hoàn toàn để « thắng » cuộc đua không gian với Liên Xô. Người ta không tin rằng NASA thời kỳ ấy có đủ khả năng thực hiện một kỳ tích công nghệ như thế.
Năm 1974, hai năm sau khi chương trình Mặt trăng của Mỹ kết thúc, nhà văn Bill Kaysing phát hành tập sách « Chúng ta chưa bao giờ đi trên Mặt trăng : Cú lừa đảo trị giá 30 tỷ đô la của Mỹ ». Trong tập sách, tác giả cho rằng có nhiều « điểm không rõ ràng » trong các bức ảnh của NASA. Cờ Mỹ bay phấp phới trong gió trong khi Mặt trăng không có khí quyển, thiếu ánh sao trời hay như các thiết bị không gian đáp xuống Mặt trăng nhưng không tạo thành hố đất…
Từ những quan sát đơn giản này, ông Bill Kaysing đi đến kết luận rằng những hình ảnh về Apollo 11 đã được quay tại một căn cứ quân sự bí mật, nằm trong vùng sa mạc Nevada, với những hiệu quả đặc biệt của Hollywood, tương tự như trong phim « 2001: A Space Odyssey » của đạo diễn Stanley Kubrick, phát hành năm 1968. Bản thân ông Kubrick cũng bị nghi ngờ đã hợp tác với NASA. Nhất là những người tin vào thuyết đồng mưu luôn tự hỏi : Vì sao từ đó đến nay không có người nào trở lại Mặt trăng ?
Bước ngoặt của « Fake News »
Giải thích với AFP, ông Didier Desormeaux, đồng tác giả tập sách « Thuyết âm mưu, giải mã và hành động » (nhà xuất bản Reseau Canope, năm 2017) cho rằng sự kiện thu hút sự quan tâm của những người nghi ngờ là do tầm mức quan trọng của sự kiện : « Giai đoạn này của quá trình chinh phục không gian là một trong những sự kiện trọng đại cho nhân loại. Thái độ nghi ngờ sự việc làm lung lay các nền tảng cơ bản của ngành khoa học và quá trình chinh phục thiên nhiên của con người ».
Trên thực tế, « Apollo 11 » chưa phải là nạn nhân đầu tiên của thuyết âm mưu. Vụ ám sát J.F. Kennedy năm 1963 hay các câu chuyện về các vật thể bay không xác định đã là đối tượng của nhiều thuyết âm mưu khác. Nhưng theo ông Didier Desormeaux, điều mới và đáng chú ý làm cho sự kiện « Apollo 11 » trở thành một « bước ngoặt » trong lịch sử « fake news » nằm ở điểm « tin đồn này dựa trên việc giải mã kỹ lưỡng mọi chỉ dấu điện ảnh xác định được trên các bức ảnh do NASA cung cấp ».
Luc Mary, sử gia về các ngành khoa học, trả lời RFI, lưu ý thêm : chính bối cảnh Chiến Tranh Lạnh là cội nguồn của mọi sự tranh cãi « hư thực » về cuộc đổ bộ không gian lịch sử này :
« Bước đi trên Mặt trăng còn là bước đi của một người Mỹ trên Mặt trăng. Sự kiện thừa nhận thành công của một quốc gia này đối với một quốc gia khác, của một hệ tư tưởng này với một hệ tư tưởng khác. Một cách chính xác, đây là một thắng lợi của Hoa Kỳ trước Liên Xô.
Nước Mỹ đã phục thù sau 12 năm đối đầu với Liên Xô. Từ năm 1957, Liên Xô là quốc gia đầu tiên đưa vệ tinh và người lên quỹ đạo. Liên Xô cũng là quốc gia đầu tiên tiến hành các hoạt động không gian ngoài phi thuyền.
Đấy thật sự là một cuộc đọ sức gay gắt. Và đó còn là một chiến thắng của phe Tư bản đối với phe Cộng sản. Một thắng lợi của những người theo Cơ đốc giáo, tức niềm tin Công giáo - đừng quên là người Mỹ tuyên thệ trên kinh thánh - với chủ nghĩa duy vật vô thần »
Việc chọn Mặt trăng là một đối tượng để chinh phục cho thấy rõ thiện chí chính trị của chính quyền Washington thời bấy giờ. Quyết định chiến lược này của Mỹ đã được thể hiện rõ trong bài diễn văn ấn tượng của ông J.F. Kennedy, tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ, năm 1961 :
« Tại sao người ta nói nhiều về Mặt trăng ? Tại sao lại chọn Mặt trăng như là mục tiêu của chúng ta ? Họ còn có thể hỏi rằng tại sao phải leo lên những đỉnh cao nhất ? Chúng ta chọn đi đến Mặt trăng. Chúng ta chọn lên Mặt trăng trong thập niên này và hoàn thành nhiều mục tiêu khác nữa, không phải vì đó là điều dễ thực hiện, mà chính bởi vì chúng khó. Bởi vì mục đích này sẽ giúp tổ chức và huy động những nguồn lực và công nghệ tốt nhất của chúng ta. »
Phản biện « Fake news »
Bất chấp các nỗ lực của giới khoa học, những hoài nghi và những lời đồn đại vẫn sống mãi theo thời gian. Vào thời điểm phi thuyền đáp xuống Mặt trăng, tại Mỹ, gần 5% số người được hỏi không tin sự việc. Tỷ lệ này giờ tăng lên là 6%.
Tại Pháp, theo một thăm dò mới nhất do Quỹ Jean-Jaures thực hiện cách đây vài tháng, có đến 16% số người được hỏi tin rằng NASA đã ngụy tạo bằng chứng và các hình ảnh phi thuyền « Apollo 11 » đáp xuống Mặt trăng, cũng như những bước đi đầu tiên của Neil Armstrong ngày 21/07/1969.
Còn tại Anh, trong một thăm dò năm 2009, tỷ lệ này là 25%.Và không phải ngẫu nhiên người Nga là những người hoài nghi nhiều nhất. Thăm dò thực hiện trong năm 2018 cho biết có đến 57% số người Nga được hỏi không tin vào sự kiện này. Vào thời điểm diễn ra sự kiện, tờ báo Nga Pravda đã không tường thuật trung thực sự việc.
Trên thực tế, từ năm 1969 đến 1972, NASA đã thực hiện 6 chuyến thám hiểm Mặt trăng, thu thập hơn 380 kg mẫu đá để phân tích. Năm 2002, NASA đã đặt viết quyển sách nhằm phản bác từng luận điểm một của những người đưa ra thuyết âm mưu. Tuy nhiên, NASA đã từ bỏ ý định này vì không muốn tạo cho họ nhiều cơ hội tấn công. Cơ quan Không gian của Mỹ khi ấy chỉ tập trung giải đáp một số điểm cụ thể.
Trong số này, việc trưng ra các bằng chứng vật chất nhằm xác nhận sự hiện diện của người Mỹ trên Mặt trăng năm đó cũng là điều hiển nhiên, như giải thích của ông Luc Mary :
« Còn có những thiết bị như máy đo địa chấn, các tấm phản chiếu laser để đo khoảng cách giữa bề mặt Trái Đất và Mặt trăng. Đương nhiên còn có cả phần bệ đỡ của phi thuyền. Người ta ước tính có khoảng 180 tấn các vật dụng, các thiết bị nghiên cứu do con người chế tạo được để lại trên Mặt trăng. »
Để thực hiện thành công nhiệm vụ Apollo 11, NASA đã tuyển dụng đến hàng trăm nghìn nhân viên và tiêu tốn của chính phủ đến 150 tỷ đô la. Một chi tiết quan trọng đối với nhiều nhà toán học nhằm phản bác lại các lập luận của những người tin vào thuyết âm mưu.
Anh David Robert Grimes, tiến sĩ Vật lý học trường đại học Oxford, giải thích với Le Monde, nhờ vào quy luật « Con Cá » (La loi de Poisson) trong xác suất thống kê, anh có thể khẳng định người ta không thể giữ được bí mật lâu quá 4 năm với giả định thuyết âm mưu này là đúng.
« Tôi tính số nhân sự làm việc tại NASA vào thời điểm phi thuyền hạ cánh xuống Mặt trăng. Họ có khoảng 425 nghìn nhân viên. Thế nên, cứ giả định từ nguyên tắc rằng tất cả đều muốn giữ bí mật và họ bảo vệ bí mật còn tốt hơn cả các cơ quan tình báo Mỹ, dù là trong điều kiện này đi chăng nữa, trong vòng khoảng 4 năm cũng sẽ có một ai đó hữu ý hay vô tình tiết lộ tầm mức của sự ngụy tạo này.
Do vậy, theo tôi, thời gian 4 năm là một ước tính khách quan. Vấn đề ở chỗ chính vì tất cả mọi người tham gia vào cùng một dự án, do vậy khó mà bảo mật mọi thứ. Đôi khi, những âm mưu này bị những người báo động hay một kẻ phản bội nào đó tiết lộ. Có khi bạn gởi thư điện tử nhầm địa chỉ. Có khi bạn gởi một SMS nhầm người. Và bất thình lình mọi người đều biết chuyện.
Do vậy, nếu như bạn tìm cách tung ra những thuyết âm mưu có quy mô lớn, cho dù là có liên quan đến Mặt trăng, biến đổi khí hậu hay chủng ngừa… chắc chắn là ít có khả năng những âm mưu này thành công. Bởi vì bạn sẽ phải cần đến rất đông người hợp tác để bảo vệ bí mật. Mà về điểm này, thì con người không mấy gì tài giỏi cho lắm ».
Sau « Hằng Nga » là anh « Cả Đỏ »
Dẫu sao thì cuộc chinh phục không gian trong những năm 1960 cho thấy rõ đỉnh điểm của cuộc Chiến Tranh Lạnh giữa Mỹ và Liên Xô. Ngày nay, bối cảnh quốc tế đã có những thay đổi, nhưng không gian một lần nữa lại là một bàn cờ địa chính trị. Trung Quốc mới đây trở thành quốc gia đầu tiên đưa thành công một phi thuyền lên phần khuất của Mặt trăng.
Tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên bố Hoa Kỳ sẽ lại gởi người lên định cư trên Mặt trăng từ đây đến năm 2024. Với Hoa Kỳ, đây là châu lục thứ 8 cần chinh phục. Để thực hiện mục tiêu này, Hoa Kỳ phải tái khởi động một chương trình không gian quy mô lớn, đòi hỏi nhiều nguồn tài chính tốn kém đáng kể.
Để giảm nhẹ gánh nặng ngân sách, NASA đã quyết định nhờ đến các doanh nghiệp tư nhân : SpaceX, của Elon Musk, Blue Origin của Jeff Bezos nhằm phát triển ngành du lịch không gian dành cho các khách hàng tỷ phú. Hay như nhiều doanh nghiệp nhỏ khác để đưa các thiết bị lên Mặt trăng cho Cơ quan Không gian Hoa Kỳ.
Hơn bao giờ hết, trước sự trỗi dậy của Trung Quốc, Hoa Kỳ quyết tâm lấy lại vị thế thống trị trong việc thám hiểm không gian. Nhưng với ông Jim Bridenstine, lãnh đạo NASA, mục tiêu cuối cùng là đi xa hơn nữa. Đến thăm Cung Trăng là một bước đệm để con người vươn tới sao Hỏa, hành tinh đỏ.
Tạp chí khoa học - Xung điện tủy cột sống : Phương pháp mới trị chứng liệt hai chân
Bệnh nhân mắc chứng liệt chi dưới do tổn thương tủy sống có thể đi lại được nhờ vào liệu pháp mới « kích thích tủy cột sống bằng xung điện ». Một nhóm các nhà khoa học Thụy Sĩ vừa công bố kết quả công trình nghiên cứu này trên tạp chí khoa học có uy tín Nature ngày 01/11/2018.
Một tin vui mang lại nhiều hy vọng cho các bệnh nhân bị liệt chi dưới do các chấn thương tủy sống. Nghiên cứu được thực hiện dưới sự điều hành của ba nhà khoa học lớn : bà Jocelyne Bloch - bác sĩ phẫu thuật thần kinh người Thụy Sĩ thuộc Trung tâm Đại học Y khoa Lausanne (CHUV) ; Grégoire Courtine – giáo sư khoa học thần kinh người Pháp và nhất là Fabien Wagner, kỹ sư người Pháp, người phát triển phần mềm kích thích xung điện. Ông Fabien Wagner còn là người đưa ra ý tưởng cho dự án, bởi vì chính bản thân ông cũng là một người tàn tật. Báo Le Monde (07/11/2018) cho biết thêm cả hai chuyên gia người Pháp hiện đang giảng dạy tại trường đại học Bách khoa Liên bang (EPFL) tại Lausanne, Thụy Sĩ.
Tham gia công trình còn có sự đóng góp nhiệt tình của ba bệnh nhân tình nguyện : Sebastian Tobler - 48 tuổi, David Mzee - 30 tuổi và Gert-Jan Oskam – 35 tuổi. Cả ba người này có cùng điểm chung là đều bị chấn thương tủy cột sống sau một tai nạn thể thao dẫn đến tình trạng bị liệt hai chân từ nhiều năm nay. Đây cũng là lần đầu tiên các bệnh nhân tham gia thí nghiệm lâm sàng chấp nhận trả lời báo chí công khai, không giấu danh tính như luật pháp quy định.
Phương pháp trị liệu
Việc điều trị được thực hiện như thế nào ? Trên đài RFI, bà Jocelyne Bloch trước tiên lưu ý phần não chỉ huy của cả ba bệnh nhân may mắn không bị tổn thương. Điều này cho phép các nhà khoa học tiến hành thử nghiệm liệu pháp xung điện tủy cột sống để phục hồi chức năng vận động. Bà cho biết:
« Ba bệnh nhân mà chúng tôi nói đến đều đã bị tổn thương ở tủy cột sống, phần ở giữa lưng. Nhưng não bộ của họ không làm sao và vẫn có khả năng đưa ra các mệnh lệnh. Hai chân của họ cũng như tủy cột sống phần dưới vẫn nguyên vẹn.
Vấn đề ở đây là có một sự gián đoạn trong hệ thống dây thần kinh chạy từ não xuống chân. Do vậy, chúng tôi đã dùng điện kích thích vào phần tủy cột sống, phía dưới phần bị tổn thương, để thúc đẩy các cơ bắp hoạt động, tạo thuận lợi cho việc cử động, bước đi.
Có nghĩa là phần não chỉ huy vẫn hoạt động tốt, nhưng lại không có đủ các thần kinh sợi để truyền mệnh lệnh, cho phép bệnh nhân đi lại. Việc kích thích điện vào tủy cột sống tạo thuận lợi cho bệnh nhân đi lại.»
Trước khi bước vào giai đoạn kích xung điện, cả ba bệnh nhân phải trải qua một cuộc phẫu thuật. Các bác sĩ sẽ cài đặt một mảnh ghép ở phần thắt lưng, sát với tủy sống, trước điểm bị tổn thương và lắp một máy phát ở lồng ngực. Được điều khiển từ xa qua máy vi tính hay máy tính bảng, chiếc máy phát này sẽ truyền tải đến mảnh ghép các tín hiệu điện để kích hoạt mảnh ghép, để rồi từ đó kích thích các sợi thần kinh điều khiển các cơ chân. Bà Jocelyne Bloch cho biết tiếp :
« Điều mới ở đây là chúng tôi đã hiểu được cơ chế cho phép bệnh nhân bước đi. Do vậy, chúng tôi dùng điện kích thích vào các vùng khác nhau của tủy cột sống để lần lượt kích hoạt động tác co, duỗi, tạo dễ dàng cho việc bước đi.
Điểm khác biệt lớn là khi luyện tập cho bệnh nhân bị liệt như vậy, chúng tôi nhận thấy là sau vài tuần luyện tập dồn dập, với những bài tập dài, bệnh nhân đã phục hồi được các chức năng cơ bắp, sau nhiều năm bị liệt. »
Với ông Gregoire Courtine, thời điểm này có ý nghĩa quan trọng. Việc luyện tập giúp khôi phục lại tính đàn hồi tế bào thần kinh, nghĩa là kích thích khả năng tái tổ chức các đường truyền thần kinh. « Bệnh nhân sẽ phải kích thích các cơ bắp. Cùng một lúc, hoạt động này sẽ kích thích vùng tương ứng ở tủy cột sống. Sự trùng hợp này cho thấy là các sợi thần kinh đang hồi phục ở điểm này », theo như giải thích của ông Gregoire Courtine với báo Le Monde.
Đây chính là điểm khác biệt so với các công trình nghiên cứu của Mỹ cũng được công bố trong năm nay. Ngày 24/09/2018, hai nhóm nghiên cứu của Mỹ – một tại Mayo Clinic (Minnesota) và nhóm thứ hai Susan Harkema, thuộc trường đại học Louisville (Kentucky), nổi tiếng trong lĩnh vực này – cùng loan báo đã làm cho ba bệnh nhân khác bị liệt chi dưới đi lại được.
Tuy nhiên, các phương pháp của các nhà khoa học Thụy Điển dường như có phần tinh vi hơn so với các nghiên cứu của đồng nghiệp Mỹ. Các nhà khoa học tại Hoa Kỳ chủ yếu dựa vào việc dùng xung điện kích thích tủy cột sống liên tục, kèm theo một chương trình tập luyện kéo dài. Một chiến lược mà ông Gregoire Courtine đánh giá là « theo kinh nghiệm », chỉ cho phép bệnh nhân « đi lại trong những khoảng cách ngắn, với điều kiện xung điện vẫn đang hoạt động », và nhất là kết quả chỉ đạt được sau nhiều tháng dài hồi phục chức năng.
Một cuộc phiêu lưu tương lai
Đối với các nhà khoa học và những người tình nguyện tham gia thí nghiệm, chương trình nghiên cứu này chẳng khác gì một cuộc phiêu lưu khoa học và đậm chất nhân bản. Cuộc phiêu lưu này có được nhờ vào sự nhiệt tình và bền bỉ của ba bệnh nhân. Hiếm có một cuộc thí nghiệm lâm sàng nào mà người tham gia dấn thân nhiệt tình đến như thế.
Tuổi còn trẻ là một yếu tố quyết định. Ở các bệnh nhân lớn tuổi, việc hồi phục chắc chắn sẽ khó khăn hơn. Kết quả đạt được còn khiêm tốn, nhưng lại đáng khích lệ. Các nhà khoa học cũng lưu ý là mức độ tự lập của từng bệnh nhân hiện nay vẫn rất khác nhau do tình trạng tê liệt của mỗi người mỗi khác. Có người có thể đi được vài bước không cần xung điện, nhưng hiện tại họ cảm thấy đi lại dễ dàng hơn khi có xung điện và có thể đi đến 2 km.
Với kết quả đạt này, các nhà khoa học Thụy Sĩ hy vọng sắp tới sẽ đạt được tiến bộ hơn. Thí nghiệm lâm sàng sẽ được mở rộng ra cho nhiều đối tượng khác. Các tác giả tin rằng nếu được điều trị sớm, khả năng hồi phục chức năng đi lại càng cao và nhanh. Bà Jocelyne Bloch nói:
« Đương nhiên, chúng tôi mới chỉ bắt đầu và cố gắng đưa ra một quan niệm. Ý tưởng của chúng tôi là trong tương lai, sẽ áp dụng phương pháp này để chữa trị. Nhưng liệu giới bác sĩ có chữa cho các bệnh nhân bị liệt có thể đi lại được, như chúng tôi đã làm hay không ? Có thể là không và còn cần có thêm các công trình nghiên cứu khác nữa. Nhưng trong mọi trường hợp, giới chuyên gia cần cố gắng để làm việc này một cách tốt nhất.
Tôi nghĩ rằng một trong những điều chủ chốt là cần phải bắt đầu chữa trị rất sớm. Trong trường hợp ba bệnh nhân mà chúng tôi miêu tả, thì họ đã trải qua từ 3 đến 7 năm bị liệt sau khi bị chấn thương. Theo tôi, cần phải bắt đầu chữa trị ngay sau khi xẩy ra tổn thương ở tủy cột sống và luyện tập trong những điều kiện tốt nhất. Đó là tiến bộ đầu tiên cần phải đạt được.
Điều thứ hai là cần cải thiện hệ thống kích thích để cho bệnh nhân có thể sớm thích ứng với cơ chế vận động của mỗi người và trong lĩnh vực này, cần phải đạt được thêm những tiến bộ kỹ thuật. »
Liệu giải pháp này có thể mở rộng sang các bệnh tê liệt vì những nguyên nhân khác ? Về điểm này, bà Jocelyne Bloch khẳng định đây là điều còn hạn chế của các nghiên cứu hiện nay:
« Các loại bệnh thoái hóa thì hơi khó bởi vì đó là những bệnh liên tục phát triển. Ngược lại, có những bệnh liên quan đến vận động, chẳng hạn những người bị tai biến mạch máu não, hoặc bị parkinson, gặp khó khăn vận động, tôi nghĩ chắc chắn là công trình nghiên cứu này có thể cải thiện khả năng vận động, đi lại. »
Tạp chí khoa học - Thế giới sẽ ra sao nếu không còn loài ong ?
Loài ong đã sống trên Trái đất từ 100 triệu năm nay. Loài vật này quen thuộc đến mức hầu như ai cũng nghĩ rằng chúng sẽ sống mãi mãi. Thế nhưng, ngày càng có nhiều nhà khoa học lên tiếng báo động về tình trạng suy thoái, thậm chí nguy cơ tuyệt chủng của loài ong và, nếu đúng như thế, đây sẽ là một thảm họa đối với nhân loại. Hành tinh của chúng ta sẽ ra sao nếu không có loài ong ? Hôm nay chúng ra sẽ nghe ý kiến của hai nhà nghiên cứu Pháp Yves Le Conte và Lionel Garnery, trả lời RFI Pháp ngữ vào đầu tháng 4/2018.
Yves Le Conte hiện là giám đốc nghiên cứu của Viện Quốc gia Nghiên cứu Nông nghiệp INRA, chi nhánh Avignon và cũng là giám đốc Đơn vị nghiên cứu về ong và môi trường, tác giả một cuốn sách về bảo vệ loài ong, vừa được xuất bản tại Pháp. Còn Lionel Garnery là nhà nghiên cứu của Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa học CNRS, giáo sư Đại học Versailles Saint-Quentin-en-Yvelines, đồng thời là chuyên gia di truyền học của loài ong đen.
Ong là loài côn trùng có tổ chức xã hội cao như kiến, mối. Chúng sống theo đàn, trong thiên nhiên hay trong các tổ ong nhân tạo. Mỗi đàn đều có ong chúa, ong thợ, ong non... và có sự phân công công việc, chặt chẽ, rõ ràng. Ong được con người nuôi để khai thác sản phẩm như mật ong, sáp ong, sữa ong chúa,...
Nhưng loài ong cũng có vai trò quan trọng đối với hệ sinh thái vì chúng tham gia vào việc thụ phấn cho các loài thực vật, như các loại côn trùng khác, nếu không muốn nói là có vai trò quan trọng nhất.
Thế mà, từ vài năm nay, số phận của loài ong gây lo ngại ngày càng nhiều, với tỷ lệ tử vong lên tới từ 30 đến 35%, thậm chí lên tới 50% vào mùa đông. Đến mức mà các nhà khoa học lo ngại cho sự tồn vong của loài côn trùng này.
Vậy những nguyên nhân gì khiến loài ong có nguy cơ bị tận diệt như vậy ? Nhà nghiên cứu Yves Le Conte giải thích :
"Nguyên nhân quan trọng nhất là những thay đổi của môi trường chung quanh những con ong. Nền nông nghiệp ngày càng mang tính thâm canh, khiến cho không gian của loài ong ngày càng bị thu hẹp. Tiếp đến là việc sử dụng quá nhiều thuốc trừ sâu, cho dù giới nuôi ong đã quyết liệt chống. Các nhà khoa học chúng tôi nay đều nhận thấy rằng thế hệ thuốc trừ sâu mới đang gây tác hại vô cùng nặng nề cho sự tồn vong của loài ong, như chất neonicotinoide. Những chất này không giết ngay, mà giết từ từ những con ong. Bây giờ, giới chính trị, các hiệp hội phải nỗ lực vận động để hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc trừ sâu trong nông nghiệp".
Một yếu tố khác đe dọa đến loài ong là những vật ký sinh, như Varroa destructor, theo lời ông Le Conte :
"Varroa destructor là một loại acari, giống như một con cua nhỏ biết hút máu. Trong một đàn ong có thể có hàng ngàn varroa destructor, chúng sinh sôi nảy nở và cuối cùng tiêu diệt cả đàn ong. Hiện nay chúng ta có thể dùng hóa chất để chống varroa, hoặc là hóa chất tổng hợp, hoặc là những hợp chất mang tính hữu cơ (bio) hơn, nhưng nếu không chữa trị đàn ong thì chúng cũng sẽ chết. Có thể là về ngắn hạn thì không được, nhưng về dài hạn thì phải làm sao mà chúng ta có thể chọn lọc được những con ong có thể kháng cự những vật ký sinh như varroa".
Nhưng theo lời nhà nghiên cứu Lionel Garnery, nguy cơ bị tận diệt của loài ong là do tổng hợp nhiều yếu tố :
"Chúng ta đã nói về hai nguyên nhân quan trọng nhất, nhưng nếu tách riêng ra thì hai nguyên nhân này không thể giải thích được sự tiêu hao của loài ong. Đúng hơn đó là do sự phối hợp của nhiều yếu tố. Đầu tiên dĩ nhiên đó là những loài ký sinh như varroa, nhưng thật ra varroa chỉ là vật chủ trung gian mang virus. Tức là có rất nhiều nhân tố lây nhiễm đe dọa loài ong.
Nguyên nhân cũng là do tác động của con người lên cây trồng với quy mô lớn, đất canh tác không còn đa dạng về môi trường, tức là không còn đa dạng về phấn hoa, hậu quả là nguồn protein, nguồn vitamin cho loài ong giảm đi, khiến chúng không còn đủ khả năng để kháng cự lại những nhân tố tác hại khác.
Như vậy, chính sự tổng hợp của toàn bộ nhân tố khiến cho loài ong bị tiêu hao nhiều như vậy. Biến đổi khi hậu cũng là một trong những nhân tố đó. Yếu tố này khiến loài ong bị rối loạn, người nuôi ong cũng vậy, vì họ phải thay đổi cách nuôi. Riêng tôi thì chủ trương một cách nuôi mang tính thiên nhiên nhiều hơn, tức là làm sao cho các đàn ong dần dần tự thích ứng với những nhân tố đó, qua việc để cho tiến trình chọn lọc tự nhiên tác động nhiều hơn".
Để chống những loài ký sinh, ta cũng có thể tuyển chọn những con ong gọi là "ong vệ sinh", theo giải thích của nhà nghiên cứu Le Conte :
"Giống ong "vệ sinh" có thể tự bảo vệ chống varroa, một loại acari sống ký sinh, vẫn là hiểm họa số một của ong. Ong "vệ sinh" là những "nữ công nhân" có khả năng phát hiện những lỗ tổ ong đang bị varroa sống bám vào, rồi móc sạch lỗ tổ ong đó, để ngăn chận varroa gây tổn hại cho ong. Tại Viện Quốc gia Nghiên cứu Nông nghiệp, chúng tôi nghiên cứu rất nhiều về đặc tính đó của giống ong "vệ sinh". Chúng tôi muốn đề nghị cho những người nuôi ong một phương pháp đơn giản để giúp họ kiểm tra xem các lỗ tổ ong có "vệ sinh" không và tăng cường khả năng chống varroa của các tổ ong".
Tuy rằng loài ong sống rất thọ, tức là trên nguyên tắc khó bị tận diệt, nhưng theo nhà nghiên cứu Garnery, vấn đề chính là nằm ở tác động con người :
"Vấn đề là sự chuyển biến của xã hội con người, là tác động của con người lên đa dạng sinh thái. Cho dù có biến đổi khí hậu, nếu chúng ta cứ để cho thiên nhiên tự tác động, thì cũng sẽ có những con ong sống sót. Chúng đã từng sống sót qua nhiều thời kỳ băng hà ở châu Âu. Vấn đề ở chỗ loài ong có nhiều lợi ích kinh tế, nên bị con người chi phối. Nếu con người cản trở khả năng kháng cự tự nhiên của loài ong, nguy cơ tận diệt của chúng sẽ lớn hơn".
Về phần nhà nghiên cứu Le Conte, ông cảnh báo về việc một số người dự tính những phương cách để thay thế những vai trò loài ong, như thể họ nghĩ rằng sự diệt vong của loài côn trùng này là điều khó tránh khỏi :
"Tôi có biết được thông tin rằng, nhất là tại Hoa Kỳ, một số nhà nghiên cứu dự định sử dụng các "máy bay không người lái" bằng ong, một loại "ong robot" để sau này có thể thay thế cho những con ong thật. Nghe qua có vẻ thú vị, nhưng về mặt công nghệ, đây là một dự án không tưởng và điều này cũng cho thấy là con người quá tự mãn.
Suy cho cùng, chúng ta đang cần và vẫn sẽ cần đến loài ong. Có những loài cây trái cần đến ong để thụ phấn. Nếu loài ong mất, đi chúng ta sẽ gặp nhiều vấn đề về canh tác, về sản xuất thực phẩm cho chúng ta.
Mặt khác, có một điều chưa ai nói đến, đó là trong thiên nhiên có rất nhiều loài cây cỏ sống hoàn toàn cần đến loài ong trong việc thụ phấn. Nếu chúng ta loại trừ một giống ong nào chuyên giúp thu phấn cho một loại cây nào đó, thì cây đó sẽ chết".
Theo nhà nghiên cứu Le Conte, hậu quả của sự diệt vong của loài ong không chỉ rất nặng nề về mặt thực phẩm, mà sự diệt vong này còn là biểu tượng của sự suy thoái một trường nghiêm trọng:
"Tôi nghĩ là chúng ta sẽ không chết đói vì có rất nhiều loại cây trái không cần đến loài côn trùng để thụ phấn, mà chỉ cần có gió, nhưng chắc chắn là nếu không còn loài ong, chúng ta sẽ mất đi một số loại rau quả và điều này rõ ràng là sẽ gây nhiều khó khăn cho nhân loại.
Đây là một tín hiệu báo động rằng chúng ta phải ngăn chận nguy cơ, vì nếu con người lại có thể phá hủy những thứ đó, thế giới coi như tiêu tùng. Cần phải xem sự tồn tại của loài ong như là một cái ngưỡng không nên vượt qua, mà trái lại phải tìm đủ mọi cách để bảo vệ chúng. Bảo vệ loài ong có nghĩa là bảo vệ môi trường chung quanh chúng ta, bởi vì chúng ta cũng đang ăn những thứ có thuốc trừ sâu, hít thở không khí nhiễm thuốc trừ sâu. Chúng ta phải ngăn chận nguy cơ đó".
Tạp chí khoa học - Tiềm năng phát triển năng lượng mặt trời tại Việt Nam
Chỉ trong vòng ba tháng đầu năm 2018, hai dự án điện mặt trời đầu tiên của Việt Nam và có quy mô lớn được khởi công tại tỉnh Ninh Thuận. Dự án thứ nhất là nhà máy điện mặt trời BIM 1, khởi công ngày 23/01/2018, sẽ lặp đặt 90.000 tấm pin năng lượng mặt trời trên diện tích 35 ha, hàng năm sẽ sản xuất ra 50 triệu kWh điện. Dự án thứ hai là nhà máy điện mặt trời Hồ Bầu Ngứ, được khởi công ngày 31/03, lặp đặt 162.000 tấm pin mặt trời trên diện tích gần 75 ha, sẽ sản suất gần 100 triệu kWh khi hòa vào lưới điện quốc gia.
Trước đó, chính phủ Việt Nam đã có kế hoạch xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân với Nga và Nhật Bản. Tuy nhiên, kế hoạch đã bị hủy vào tháng 11/2016 do chi phí quá lớn, lên đến vài tỉ đô la cho mỗi lò phản ứng.
So với điện hạt nhân, điện gió và điện mặt trời có những lợi thế gì khi được phát triển ở Việt Nam? Trả lời RFI tiếng Việt, ông Nguyễn Trịnh Hoàng Anh, chuyên gia Kinh tế và Chính sách Năng lượng, giảng viên đại học Khoa Học-Công Nghệ Hà Nội (Université des Sciences et des Technologies de Hanoi, USTH), giải thích :
« Ưu điểm rõ ràng nhất đó là đầu vào miễn phí. Yếu tố thứ hai đó là sự phát thải rất ít. Việt Nam là một nước nhiệt đới, vì vậy, tiềm năng về năng lượng mặt trời tại Việt Nam rất là tốt, kể cả phong điện vì chúng ta có một bờ biển dài hơn 3.000 km. Đặc biệt khu vực miền Trung - Nam Bộ và Nam Bộ có tiềm năng gió và mặt trời rất lớn. Đó là một thuận lợi khi chúng ta muốn phát triển phong điện hay điện mặt trời.
Tuy nhiên, khi quyết định phát triển một dạng năng lượng nào đó thì người ta phải tính toán đến rất nhiều yếu tố, ví dụ chi phí đầu tư, đảm bảo việc cung cấp điện có liên tục, có an toàn hay không. Đó là một bài toán rất tổng thể, vì vậy, ngay cả hiện nay, khi nhà nước đã có rất nhiều chính sách hỗ trợ điện mặt trời hay điện gió, thì việc triển khai trên thực tế cũng gặp một số trở ngại mà hiện nay, nhà nước cũng như các nhà đầu tư đang cùng nhau giải quyết vấn đề này ».
Theo báo chí trong nước, tỉnh Ninh Thuận đã chấp thuận chủ trương khảo sát cho 48 dự án điện mặt trời, trong đó có 18 dự án được cấp quyết định chủ trương đầu tư. Riêng tập đoàn Thiên Tân, theo báo Nhật Nikkei (05/02/2018), đã có 5 dự án tại tỉnh Ninh Thuận, từ nay cho đến năm 2020, với tổng trị giá gần 2 tỉ đô la. Theo dự kiến, nhà máy đầu tiên, có công suất 50 MW, sẽ đi vào hoạt động trong năm 2018, bốn nhà máy tiếp theo sẽ có công suất từ 200-300 MW. Còn tập đoàn TTC đề ra kế hoạch xây 20 dự án điện mặt trời, cho đến năm 2020, tại tỉnh Tây Ninh (324 MW), Bình Thuận (300 MW), Ninh Thuận (300 MW)…
Điện mặt trời : Từ quy mô nhỏ đến dự án nguồn năng lượng chính
Đúng là các tỉnh Trung-Nam Bộ và Nam Bộ thu hút các dự án điện mặt trời có quy mô lớn, vì có số giờ nắng cả năm trên 2.600 giờ, tổng lượng nhiệt gần 10.000 độ C, nhưng rất nhiều dự án nhỏ hơn đã được triển khai ở các tỉnh thành trên cả nước, như giải thích của chuyên gia Hoàng Anh :
« Theo như quy định hiện nay cho điện mặt trời thì những dự án điện nối với lưới điện ở quy mô gia đình cũng được hỗ trợ về mặt chính sách, cũng như hỗ trợ về mặt giá. Chính vì vậy, ở Hà Nội và một số tỉnh khác ở miền bắc, họ cũng xem xét phát triển những dự án đó ở quy mô từ gia đình, chứ không chỉ ở quy mô công nghiệp.
Thực ra ở quy mô gia đình, phải nói là gần như các tỉnh đều có, ngay cả các tỉnh miền núi phía bắc, nơi mà không ai nghĩ tiềm năng năng lượng mặt trời là nhiều, nhưng mà ở một số xí nghiệp làm nông nghiệp (như trồng cây trà, hoặc các cây nông nghiệp khác), họ cũng đã và đang phát triển những hệ thống năng lượng mặt trời để phục vụ cho chính việc sản xuất của họ.
Lấy một ví dụ ở Hà Nội, tòa nhà của Liên Hiệp Quốc ở Hà Nội cũng có một hệ thống điện mặt trời trên mái nhà có công suất là 119 KW. Họ đã vận hành từ trước đến nay và họ cũng đã đấu nối với lưới điện rồi. Tuy nhiên, trước đây những dự án như vậy chưa nhận được những hỗ trợ về mặt chính sách về giá nhưng giờ đây các dự án tương tự sẽ nhận được những hỗ trợ khuyến khích đó. Đó cũng là một điều cho chúng ta thấy ở các tỉnh thành khác ở miền bắc, hoặc là toàn quốc, cũng có khả năng phát triển dự án điện mặt trời công suất tương đối lớn hơn so với hiện tại ».
Việt Nam đang cố gắng phát triển điện mặt trời thành một nguồn năng lượng chính của đất nước. Theo dự kiến, năng lượng mặt trời sẽ chiếm 3,3% tổng công suất phát điện vào năm 2030, tiếp theo là chiếm 20% vào năm 2050. Tuy nhiên, thị phần năng lượng mặt trời hiện còn rất nhỏ :
« Thực tế là hiện nay, ngay cả phong điện, điện mặt trời, tức là những dạng năng lượng tái tạo mà không tính đến thủy điện, đều đóng góp một tỉ trọng rất nhỏ, dưới 1%, vào trong hệ thống. Chính vì vậy, Nhà nước mới có chính sách muốn phát triển nhiều hơn nữa để đáp ứng được cho nhu cầu phát triển điện trong thời gian tới khi mà nhu cầu ngày càng tăng và các nguồn năng lượng hóa thạch ngày càng cạn kiệt. Trong tương lai, nó cũng là nguồn thay thế để chúng ta sử dụng, đáp ứng được nhu cầu. Còn hiện tại, chúng ta cũng đang phải giải quyết rất nhiều việc, từ kỹ thuật đến kinh tế, chính sách để làm sao cho những dự án này được phát triển một cách hiệu quả nhất ».
Rút kinh nghiệm từ những nước đi trước
Điện mặt trời nói riêng, và năng lượng tái tạo nói chung, đã và đang được phát triển nhanh chóng trên thế giới. Đây chính là một điểm thuận lợi cho Việt Nam vì có thể học hỏi kinh nghiệm và nhận được hỗ trợ từ những dự án trước đó.
« Có thể nói là không chỉ có điện mặt trời, mà cả phong điện, chúng ta nhận được rất nhiều hỗ trợ từ các nước phát triển. Ví dụ từ Đức, họ đã có những chương trình về năng lượng tái tạo, và đặc biệt là điện gió, từ những năm 2008 ở Việt Nam.
Đối với điện mặt trời, nhiều tổ chức nước ngoài, như Ngân hàng Thế giới, hoặc các tổ chức Hợp tác Phát triển Đức (GIZ), hoặc tổ chức phát triển của Mỹ, hoặc của Pháp AFD. Hiện AFD có những dự án về phát triển lưới điện cho Việt Nam hoặc những dự án tiết kiệm năng lượng, kể cả những dự án về năng lượng tái tạo cho Việt Nam. Vào đầu tháng Năm (2018), AFD cũng tổ chức một số hội thảo hoặc một số buổi làm việc cùng với các nhà làm chính sách của Việt Nam, cũng như các công ty điện ở Việt Nam để tìm ra những hướng phát triển hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực năng lượng.
Hoặc ngay từ những nước láng giềng như Thái Lan, là một nước rất thành công về phát triển năng lượng mặt trời ở khu vực Đông Nam Á. Tất cả để làm sao cho chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm từ họ, không chỉ là kinh nghiệm thành công, mà còn cả kinh nghiệm thất bại.
Ngay như Pháp, chúng ta có thể thấy là khoảng 5 đến 6 năm trước, cũng như Tây Ban Nha, họ phát triển năng lượng mặt trời rất nhiều, có nhiều chính sách hỗ trợ. Nhưng sau một thời gian, họ phải tạm ngừng những chính sách hỗ trợ đó để đánh giá lại bởi vì nhiều khi ra một chính sách, không thể khẳng định được rằng nó tốt ngay lập tức được mà phải qua quá trình thực hiện, sau đó mới biết được chính sách đó có tốt hay không và cần bổ sung, chỉnh sửa như nào cho phù hợp với thực tế của từng nước.
Đây cũng chính là một thuận lợi của Việt Nam và hiện nay chúng ta vẫn đang trong giai đoạn hợp tác với các nước để xem làm thế nào có được một chiến lược phát triển tốt nhất cho năng lượng tái tạo nói riêng, cũng như năng lượng cho Việt Nam nói chung ».
Chính phủ Việt Nam sẽ khuyến khích được người dân tự sản xuất và sử dụng điện mặt trời, một mặt nhờ giá thành của các tấm pin mặt trời ngày càng giảm, mặt khác nhờ chính sách mua điện mặt trời dư thừa :
« Sử dụng năng lượng mặt trời ở các hộ gia đình đã có từ lâu rồi, khi mà họ chuyển năng lượng mặt trời sang nhiệt để sử dụng trong bình nước nóng. Và đến thời gian gần đây, khi mà điện mặt trời phát triển với sự phát triển về mặt kỹ thuật, có nghĩa là có tiềm năng lớn, rồi công nghệ phát triển, khiến cho là pin năng lượng mặt trời hiệu quả hơn, thì người dân đã bắt đầu sử dụng.
Nhà nước cũng thấy đây là một lĩnh vực tiềm năng và cũng muốn hỗ trợ cho người dân. Chính vì vậy mà có chính sách từ tháng 06/2017, nếu hộ dân có những tấm pin năng lượng mặt trời kết nối với lưới điện thì Nhà nước cũng trợ giá. Chính vì vậy mà năng lượng mặt trời trong các hộ gia đình cũng rất tăng hiện nay ».